ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội - Hotline: 0936 018 199 - Email: minhdunglawfirm@gmail.com
Hiện nay, đây là một trong những câu hỏi gây ra nhiều tranh chấp và cũng là thắc mắc của nhiều khán giả gửi đến cho Luật Minh Dũng. Vậy Luật Minh Dũng xin giải đáp thắc mắc của quý khán giả liên quan đến vấn đề chia thừa kế cho vợ hai cũng như con của vợ hai như sau:
Pháp luật về thừa kế hiện nay chia ra hai loại thừa kế: (i) thừa kế theo di chúc, và (ii) thừa kế theo pháp luật.
1. Trường hợp chồng chết có để lại di chúc hợp pháp
Trường hợp người chồng có để lại di chúc hợp pháp trước khi qua đời thì việc chia di sản của người chồng sẽ được thực hiện theo di chúc, trừ trường hợp quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Như vậy, nếu trong di chúc người chồng có để lại di sản thừa kế cho vợ hai và con của vợ hai thì những người này được hưởng di sản thừa kế.
Nếu người chồng viết di chúc không để lại tài sản thừa kế cho vợ hai và con riêng của vợ hai thì:
Đối với người vợ hai
Nếu vợ hai và người chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp tại thời điểm người chồng chết thì vợ hai được hưởng hai phần ba suất của một người thừa kế theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Nếu vợ hai và người chồng chỉ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì vợ hai không được nhận di sản thừa kế. Cần lưu ý, nếu vợ hai và người chồng không đăng ký kết hôn nhưng có quan hệ hôn nhân thực tế, tức chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 thì được coi là vợ chồng hợp pháp và vợ hai được hưởng di sản thừa kế theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đối với con của vợ hai:
Căn cứ Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015, con của vợ hai vẫn được hưởng hai phần ba suất thừa kế của một người thừa kế nếu đó là con chung của hai người và chưa thành niên.
2. Trường hợp chồng chết không để lại di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực:
Nếu khi qua đời mà người chồng vẫn còn di sản để lại mà không có di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực thì di sản được chia theo hàng thừa kế theo quy định pháp luật:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Đối với vợ hai:
Trường hợp vợ hai và người chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp tại thời điểm người chồng qua đời (kể cả trường hợp đang ly thân hoặc đang ly hôn mà chưa có bản án hoặc quyết định có hiệu lực công nhận việc ly hôn của toà án) thì vợ hai được hưởng một phần di sản do là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Đối với con của vợ hai:
Nếu là con chung của hai người thì con của vợ hai cũng được hưởng một phần di sản thừa kế do người này thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề con riêng của cha dượng, mẹ kế, pháp luật dân sự có quy định như sau:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
Như vậy, nếu người chồng và người con riêng của vợ hai có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau thì họ được xác định có quan hệ như cha nuôi với con nuôi. Khi đó người con riêng cũng là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất được nhận di sản.
Trên đây là giải đáp của Công ty Luật Minh Dũng liên quan đến vấn đề vợ hai có được hưởng thừa kế không. Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của Luật Minh Dũng xin vui lòng liên hệ:
Bộ phận tư vấn/:
Hotline: 0936 018 199
Email: minhdunglawfirm@gmail.com
Trân trọng!.