ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội - Hotline: 0936 018 199 - Email: minhdunglawfirm@gmail.com
Hành vi đọc trộm tin nhắn của người khác xảy ra rất phổ biến trong xã hội. Do đó, ta cần tìm hiểu rõ về vấn đề này để bảo về quyền và lợi ích của mình.
Hỏi: Em hiện là học sinh lớp 12. Nhà trường quy định khi thi cấm mang và sử dụng điện thoại trong giờ thi. Em quên không cất điện thoại và vẫn để trong túi quần. Trong thời gian thi, em bị giám thị hành lang A phát hiện việc mang theo điện thoại. Giám thị A tịch thu điện thoại ngay lúc đó và thực tế em không hề sử dụng điện thoại. Giám thị A đem điện thoại ra ngoài, tự ý mở điện thoại và đọc tin nhắn của em. Sau đó, giám thị A công khai nói với tất cả mọi người rằng em nhắn tin hỏi bạn bên ngoài về đề thi nhưng lúc đó trong điện thoại em không hề đang nhắn tin hay sử dụng tài liệu mà bạn em gửi. Trong trường hợp này, giám thị B có vi phạm pháp luật và có thể có hình thức xử lý gì không ạ? Em rất bức xúc, hiện em bị đưa ra hội đồng kỷ luật Nhà trường.
TRẢ LỜI
Cảm ơn em đã tin tưởng và lựa chọn sự tư vấn của công ty Luật TNHH Minh Dũng.
Thứ nhất, ta cần khẳng định rằng, điện thoại cá nhân là tài sản riêng của mỗi người. Bộ luật Dân sự 2015 bảo vệ tối đa quyền sở hữu đối với tài sản riêng của mình. Chỉ có chủ sở hữu hợp pháp của tài sản mới có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Việc giám thị B tịch thu nằm trong phạm vi xử lý của nội quy, quy chế Nhà trường (Nội quy, quy chế này đã được công khai rộng rãi, em học tập tại Nhà trường nên mặc nhiên em đã đồng ý với nội quy, quy chế này). Do đó, hành vi tịch thu điện thoại nêu trên của giám thị B không vi phạm quyền sở hữu tài sản.
Thứ hai, xét hành vi đọc tin nhắn điện thoại cá nhân tịch thu mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Việc tịch thu điện thoại cá nhân của em trong giờ thi chỉ là tạm giữ trong thời gian ngắn theo nội quy của Nhà trường. Tuy nhiên, bất kì ai cũng không được đọc, phát tán nội dung tin nhắn trong điện thoại của em vì hành vi này xâm phạm đến quyền bí mật đời tư – một quyền được quy định trong HIến pháp. Cụ thể:
Bí mật đời tư là quyền đã được Hiến pháp ghi nhận tại Điều 21 như sau:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.
Bộ luật Dân sự 2015 cũng có khẳng định về bí mật thư tín, điện thoại tại Điều 38 như sau:
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
Thứ ba, về các hình thức xử lý hành vi vi phạm.
Hành vi đọc tin nhắn này mà không có sự cho phép của em có thể bị xử lý Hình sự về Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác. Điều 159 Bộ luật Hình sự quy định như sau:
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, nếu giám thị B đã từng bị xử lý kỷ luật hoặc đã từng bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này thì mới bị xử lý hình sự, mức phạt sẽ từ cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đến 50.000.000 đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến ba năm.
Còn nếu có những tình tiết tăng nặng như trong Khoản 2 thì người vi phạm sẽ bị phạt tù từ 01 đến 03 năm.
Ngoài ra, nếu đúng là giám thị đã bịa đặt và em có thể chứng minh được điều đó, giám thị B còn phạm tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật HÌnh sự 2015.
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Thậm chí, nếu phạm tội vu khống, ngoài các hình thức xử lý như Khoản 1 Điều 156 (phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm) thì trường hợp này còn có thể áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm b Khoản 2 (Lợi dụng chức vụ, quyền hạn).
Trên đây là tư vấn của công ty Luật TNHH Minh Dũng. Nếu có thắc mắc về pháp lý, vui lòng liên hệ 19008906 hoặc email luatminhdung@gmail.com.
