ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH DŨNG

16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội - Hotline: 0936 018 199 - Email: minhdunglawfirm@gmail.com

  • Trang chủ
  • BỘ MÁY CÔNG TY
  • VBPL
    • Luật
    • Nghị định
    • Nghị quyết
    • Thông tư
    • Quyết định
    • Văn bản khác
  • BÀI VIẾT MỚI
  • BIỂU MẪU
    • Biểu mẫu Luật Hình sự
    • Biểu mẫu Luật Hôn nhân và gia đình
    • Biểu mẫu Doanh nghiệp
  • ĐĂNG KÝ TƯ VẤN

Danh mục dịch vụ

  • Biểu Mẫu
  • Hỗ trợ doanh nghiệp
  • Tố tụng
  • Nhân sự
  • Tư vấn pháp luật
  • Hôn nhân
  • Hình sự
  • Dịch vụ pháp lý khác
Facebook

Hỗ trợ trực tuyến

Customer Support
Luật sư Hà 0936018199
  • Trang chủ
  • Tư vấn pháp luật

Kiện đòi nhà, nhận lại tiền – Có phải là chuyển nhượng bất động sản?

Thứ năm, Ngày 04/09/2025 10:48

Bản án số 01/2022/HC-PT ngày 23/6/2022 của Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ về tranh chấp “khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực thuế” giữa người khởi kiện là bà Đ, bà T, bà M và người bị kiện là Chi cục thuế quận N, thành phố Cần Thơ, đã giải quyết một vụ án hành chính phát sinh từ hệ quả của một vụ án dân sự. Thực hiện bản án dân sự, khi làm thủ tục đăng ký sang tên, cơ quan thuế (Chi cục thuế quận N) đã yêu cầu người khởi kiện nộp thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản trên số tiền 5 tỷ đồng nhận được. Vấn đề tranh chấp là liệu khoản thu nhập này có phải là thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản chịu thuế hay không.

 

1. Nội dung vụ án

Những người khởi kiện bà Đ, bà T và bà M có tranh chấp trong vụ án dân sự “đòi lại tài sản” với bị đơn là ông P, bà H.

Tranh chấp đã được giải quyết theo Bản án dân sự sơ thẩm số 127/2019/DSST ngày 29/11/2019 của Toà án nhân dân quận N và Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2020/DSPT ngày 27/5/2020 của Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ.

Các nguyên đơn yêu cầu ông P, bà H trả lại nhà, đất bởi họ được thừa kế theo di chúc của bà H4 nhưng chưa được sang tên. Ông P, bà H không đồng ý vì cho rằng việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H4 là sai luật, không công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở thuộc về bà H4. Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã thoả thuận được rằng, theo yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn thay vì trả nhà thì sẽ trả bằng giá trị (5 tỷ đồng) cho nguyên đơn.

Bản án dân sự sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định bà Đ, T, M là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà và mảnh đất, buộc bị đơn thanh toán số tiền 5 tỷ đồng  (“tại phiên tòa sơ thẩm ông P, bà H, bà Đ, bà M, bà T đã thay đổi yêu cầu khởi kiện, đồng ý chuyển nhượng lại căn nhà và đất tranh chấp cho bị đơn ông Nguyễn Bá P, bà Nguyễn Thị Thùy H với số tiền 5.000.000.000 đồng và ông P, bà H được làm thủ tục kê khai, đăng ký căn nhà, đất tranh chấp và Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn”). Bản án bị kháng nghị về nội dung án phí, buộc bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

Bản án dân sự phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp quyền sở hữu (ai có quyền sở hữu), theo điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội là tranh chấp không có giá ngạch. Việc các bên đi đến được thoả thuận không làm thay đổi bản chất của yêu cầu (quan hệ pháp luật tranh chấp), nên đương sự chỉ phải chịu án phí không có giá ngạch.

Theo như quyết định của bản án, các đương sự đã tiến hành thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà tranh chấp. Trong quá trình thực hiện thủ tục, Chi cục thuế quận N đã yêu cầu người khởi kiện phải nộp thuế thu nhập cá nhân là 100.000.000 đồng theo Thông báo số LTB2081519 – TK0016387/TB-CCT ngày 08/12/2020. Ngày 11/10/2021, các nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu huỷ Quyết định hành chính là Thông báo này.

2. Quan điểm của các đương sự

– Quan điểm của người khởi kiện: Cả 2 bản án dân sự đều xác định đây là vụ án không có giá ngạch, không giải quyết tranh chấp liên quan đến chuyển nhượng bất động sản mà chỉ xem xét công nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng của bà Đ, T, M. Do đó khoản tiền 5 tỷ đồng không phải thu nhập chịu thuế vì không tồn tại hợp đồng chuyển nhượng bất động sản giữa bà Đ, T, M với vợ chồng ông bà P, H.

– Quan điểm của người bị kiện: Căn cứ điểm g khoản 5 Điều 2 của Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ tài chính và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ, các bà Đ, T, M đã nhận được 5 tỷ đồng từ ông P, bà H là thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, do vậy đây là khoản thu nhập chịu thuế.

Bản án hành chính sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện và huỷ Thông báo. Không đồng ý với bản án sơ thẩm, Chi cục thuế quận N đã kháng cáo toàn bộ bản án này.

3. Quan điểm của Hội đồng xét xử tại Bản án phúc thẩm số 01/2022/HC-PT

Căn cứ điểm g khoản 5 Điều 2 của Thông tư số 111/2013/TT – BTC ngày 15/8/2013 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và điểm a.3 khoản 3 Điều 26 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân quy định:

Điều 2: Các khoản thu nhập chịu thuế:

………………………………..

5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản:

………………….

g) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản với mọi hình thức.”

Điều 26. Khai thuế, quyết toán thuế.

……………………………………..

3. Khai thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản

a) Cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản thực hiện khai thuế theo từng lần phát sinh, kể cả trường hợp thuộc đối tượng được miễn thuế. Khai thuế đối với một số trường hợp cụ thể như sau:

………………………….

a.3) Trường hợp bất động sản do cá nhân chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân khác theo quyết định thi hành án của Tòa án thì cá nhân chuyển nhượng phải khai, nộp thuế hoặc tổ chức, cá nhân tổ chức bán đấu giá phải khai thuế, nộp thuế thu nhập cá nhân thay cho cá nhân chuyển nhượng. Riêng đối với bất động sản của cá nhân bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện tịch thu, bán đấu giá nộp vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật thì không phải khai, nộp thuế thu nhập cá nhân.

Do đó, Chi cục thuế quận N ban hành Thông báo số LTB2081519 TK0016387/TB-CCT ngày 08/12/2020 thông báo cho bà Đ, T, M phải nộp thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng bất động sản với số tiền 100.000.000 đồng là có cơ sở, đúng quy định.

Nhận định của Toà án cấp sơ thẩm rằng không có sự chuyển nhượng vì cả 2 bản án dân sự đều không áp dụng điều luật nào liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp lí. Bà Đ, T, M đã đồng ý giao quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho ông bà P, H và ông bà phải thanh toán một số tiền tương ứng giá trị của nhà, đất để được công nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng này. Đây là thoả thuận chuyển nhượng giữa các bên và được Toà án ghi nhận bằng bản án.

Việc chịu án phí không có giá ngạch đối với số tiền 5 tỷ đồng không phải là căn cứ để xác định có việc chuyển nhượng hay không. Bởi lẽ, nghĩa vụ chịu án phí có giá ngạch hay không có giá ngạch dựa trên quan hệ pháp luật tranh chấp. Trong trường hợp này việc xác định giá trị tài sản là 5 tỷ đồng và đồng ý chuyển nhượng tại phiên tòa là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên nên không làm thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp về quyền sở hữu.

Từ những phân tích như trên thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm hủy Thông báo số LTB2081519-TK0016387/TB-CCT ngày 08/12/2020 là không đúng quy định pháp luật, sẽ gây thất thoát ngân sách nhà nước trong việc thu thuế chuyển nhượng bất động sản.

4. Bình luận về bản án

Tòa án cấp phúc thẩm đã đánh giá đúng bản chất pháp lý của giao dịch: có sự chuyển giao quyền sở hữu và có khoản tiền tương ứng được thanh toán, đủ yếu tố cấu thành một giao dịch chuyển nhượng bất động sản. Dù hình thức của giao dịch không phải là một hợp đồng dân sự thông thường mà là thỏa thuận được ghi nhận trong bản án, thì hậu quả pháp lý vẫn là tương tự. Điều này phù hợp với tinh thần của Thông tư 111/2013/TT-BTC, vốn định nghĩa rộng về thu nhập từ chuyển nhượng, không chỉ giới hạn ở giao dịch có hợp đồng công chứng.

Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2022/HC-PT thể hiện một cách tiếp cận thực tiễn, chặt chẽ về mặt pháp lý và phù hợp với quy định hiện hành. Phán quyết này có ý nghĩa đáng chú ý trong việc lấp khoảng trống giữa giao dịch dân sự được hình thành qua thỏa thuận tại tòa án và nghĩa vụ thuế phát sinh từ kết quả của thỏa thuận đó.

----------------------------------------

⚖ Công ty Luật TNHH Minh Dũng ⚖

Địa chỉ: 16TM1-5 Khu đô thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Định Công, thành phố Hà Nội.

Số điện thoại: 0936.018.199 (LS. ThS. Lê Duy Hà)

Website: https://luatminhdung.com

Email: minhdunglawfirm@gmail.com

Bài viết liên quan

  • Bản sao y công chứng có giá trị trong bao lâu?

  • Tính lãi đến ngày xét xử phúc thẩm hay sơ thẩm? – Quyết định giám đốc thẩm số 03/2025/KDTM-GĐT của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

  • Những trường hợp xây nhà không cần giấy phép xây dựng

  • Hợp đồng đã thực hiện 95% vẫn vô hiệu

  • Không cấp sổ đỏ cho hộ gia đình từ ngày 01/8/2025

  • Luật sư có được hứa thưởng? – Quyết định giám đốc thẩm số 271/2024/DS-GĐT – Quyết định giám đốc thẩm số 271/2024/DS-GĐT

  • Sơ đồ thẩm quyền Tòa án nhân dân các cấp kể từ ngày 01/7/2025

  • Nghị quyết hết hiệu lực vẫn được áp dụng?

  • Quyền chi phối doanh nghiệp của chủ sở hữu hưởng lợi là gì

  • Thủ tục xóa án tích mới nhất theo quy định pháp luật năm 2025

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH DŨNG

Hợp tác thành công

icon

Địa Chỉ :
16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội

Hotline : 0936 018 199

Fax :

Mail :
minhdunglawfirm@gmail.com

Facebook
  • Home
  • Về chúng tôi
  • Dịch vụ
  • Tin tức

Copyright © 2018 - All rights reserved

Mời bạn nhập thông tin. Chúng tôi sẽ gọi lại tư vấn

CHAT VỚI CHÚNG TÔI