ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH DŨNG

16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội - Hotline: 0936 018 199 - Email: minhdunglawfirm@gmail.com

  • Trang chủ
  • BỘ MÁY CÔNG TY
  • VBPL
    • Luật
    • Nghị định
    • Nghị quyết
    • Thông tư
    • Quyết định
    • Văn bản khác
  • BÀI VIẾT MỚI
  • BIỂU MẪU
    • Biểu mẫu Luật Hình sự
    • Biểu mẫu Luật Hôn nhân và gia đình
    • Biểu mẫu Doanh nghiệp
  • ĐĂNG KÝ TƯ VẤN

Danh mục dịch vụ

  • Biểu Mẫu
  • Hỗ trợ doanh nghiệp
  • Tố tụng
  • Nhân sự
  • Tư vấn pháp luật
  • Hôn nhân
  • Hình sự
  • Dịch vụ pháp lý khác
Facebook

Hỗ trợ trực tuyến

Customer Support
Luật sư Hà 0936018199
  • Trang chủ
  • Hình sự

Các trường hợp nào được miễn trừ trách nhiệm hình sự?

Thứ tư, Ngày 25/09/2024 11:36

Có những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện nhưng được loại trừ trách nhiệm hình sự. Vậy đó là những trường hợp nào?

Chương IV của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định 07 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, bao gồm:

 

Điều 20 - Sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. 

 

Theo đó, sự kiện bất ngờ là trường hợp gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội nhưng người gây ra hậu quả thiệt hại đó không có lỗi vì họ không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi gây hậu quả. Bản chất pháp lý của sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi không có lỗi do họ không tự lựa chọn thực hiện hành vi gây thiệt hại. Họ đã không thấy trước được tính chất (hậu quả) nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Hoàn cảnh khách quan không cho phép họ có thể thấy trước hậu quả của hành vi và họ cũng không có nghĩa vụ (bị buộc) phải thấy trước việc gây ra hậu quả đó. Như vậy, dấu hiệu có lỗi - cơ sở để xem xét một hành vi có là tội phạm là không, và có cần thiết áp dụng các biện pháp tác động về mặt pháp lý hình sự không đã không được thỏa mãn.

 

Điều 21 - Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

 

Theo quy định của điều luật, tình trạng không có năng lực TNHS có thể được hiểu là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Như vậy, có 02 dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS, cụ thể:

 

Dấu hiệu y học (mắc bệnh, đó là người ở trong tình trạng không có năng lực TNHS là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần), đây là điều kiện cần.

 

Dấu hiệu tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển, đó là người không có năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi gây thiệt hại và họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó), đây là điều kiện đủ. Cả 2 dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngược lại, một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.

 

Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình mới được coi là không có năng lực TNHS. Có nghĩa rằng họ phải thỏa mãn đồng thời 2 dấu hiệu trên, trong đó, dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân là dấu hiệu tâm lý có vai trò là kết quả nhưng không có nghĩa mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển. Năng lực này có mất hay không, không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi nguy hiểm nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện.

 

Điều 22 - Phòng vệ chính đáng: 

 

1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

 

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.[...]

 

Có thể nói phòng vệ chính đáng là hành vi phòng vệ, chống trả sự xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của người có hành vi phòng vệ hoặc của người khác. Mục đích của phòng vệ chính đáng là bảo vệ lợi ích hợp pháp nên mặc dù người có hành vi phòng vệ gây nên thiệt hại cho người có hành vi xâm hại nhưng không bị coi là tội phạm. Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân. Nhà nước quy định cho công dân được thực hiện quyền phòng vệ để bảo vệ lợi ích hợp pháp khi có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp. Quyền phòng vệ chính đáng được thực hiện cả khi người phòng vệ có khả năng bảo vệ lợi ích hợp pháp bằng các biện pháp khác. 

 

Việc quy định chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta nhằm động viên, khuyến khích nhân dân tham gia vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

 

Điều 23 - Tình thế cấp thiết: 

 

1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

 

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.[...]

 

Theo quy định trên người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong tình thế có khả năng cùng song song tồn tại:

 

  1. Khả năng các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác sẽ bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm bên ngoài gây ra.
  2. Khả năng thiệt hại cho các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác sẽ không xảy ra nếu có sự ngăn chặn của mình bằng cách gây ra một thiệt hại khác cũng cho một lợi ích hợp pháp.

 

Trong tình thế đó, một người đã chọn phương án ngăn chặn thiệt hại do nguồn nguy hiểm khác gây ra cho lợi ích hợp pháp bằng cách thực hiện hành vi gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Việc gây ra thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn một thiệt hại lớn hơn khi không còn cách nào khác tránh khỏi thiệt hại đó là có ích cho xã hội và được Nhà nước, xã hội khuyến khích. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế đó được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. Hành vi này không phải là tội phạm và người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại của mình.

 

Điều 24 - Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội: 

 

1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.[...]

 

Trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm thuộc về mọi cơ quan, mọi công dân đều có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm (Điều 4 Bộ luật Hình sự 2015). Theo đó, việc công dân dùng vũ lực bắt người phạm tội quả tang và người có lệnh truy nã là cần thiết. Trong quá trình bắt giữ người phạm pháp, người bắt giữ có thể dùng vũ lực, gây thiệt hại về sức khỏe cho người bị bắt. Căn cứ vào các tình tiết có liên quan đến việc bắt, như tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm pháp, tính chất, mức độ chống trả của người bị bắt, nhân thân người phạm pháp, hoàn cảnh lúc và nơi xảy ra việc bắt giữ, trạng thái tâm lý của người bắt giữ…

 

Nếu thấy trong quá trình bắt giữ người phạm pháp, mặc dù người bắt giữ dùng vũ lực, gây thiệt hại cho người bắt giữ nhưng việc dùng vũ lực, gây thiệt hại đó là cần thiết để bắt giữ người phạm pháp thì người bắt giữ không bị coi là có lỗi và không phải chịu TNHS.

 

Điều 25 - Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ: Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.[...]

 

Trong sản xuất cũng như trong nghiên cứu khoa học cần có những thí nghiệm, thử nghiệm để áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, nghiên cứu khoa học, hoạt động nghề nghiệp. Quá trình nghiên cứu, thử nghiệm để áp dụng vào thực tế không tránh khỏi các trường hợp rủi ro có thể xảy ra gây thiệt hại mặc dù chủ thể đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết. Để có thể có được những thành quả trong sản xuất và nghiên cứu khoa học thì không tránh khỏi những rủi ro, gây ra những thiệt hại nhất định cho những lợi ích hợp pháp.

 

Như vậy, việc gây thiệt hại trong những trường hợp nhất định cần được coi là có lợi cho xã hội và người gây thiệt hại không phải chịu TNHS.

 

Điều 26 - Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên: Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

 

Trong trường hợp lệnh của cấp trên không hợp pháp và người thi hành lệnh gây thiệt hại cho những lợi ích hợp pháp, có thể xảy ra các tình huống: Người thi hành lệnh đó không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của việc thi hành lệnh đó, cũng không thể và không buộc phải thấy trước hậu quả đó thì người thi hành lệnh không bị coi là có lỗi và không chịu TNHS; Người thi hành lệnh đó thấy trước việc thi hành lệnh đó sẽ gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ nhưng vẫn mong muốn gây thiệt hại đó, hoặc để mặc cho thiệt hại đó xảy ra thì người thi hành lệnh có lỗi cố ý đối với hành vi gây thiệt hại của mình và phải chịu TNHS về tội tương ứng do cố ý hoặc người thi hành lệnh thấy trước khả năng gây thiệt hại của hành vi của mình nhưng tin rằng thiệt hại đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người đó không thấy trước thiệt hại do hành vi của mình gây ra nhưng nếu có sự chú ý cần thiết thì họ có thể thấy trước thiệt hại đó.

 

Trong trường hợp này, người thi hành lệnh cấp trên bị coi là có lỗi và họ có thể phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại.

 

MỌI THÔNG TIN XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ:

 

Hotline: 0936.018.199  

 

Website: luatminhdung.com.vn 

 

Email: minhdunglawfirm@gmail.com 

 

Địa chỉ: 16TM1 khu đô thị The Manor, Nguyễn Xiển, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội.

Bài viết liên quan

  • Hình sự hóa hành vi sử dụng trái phép chất ma túy - kể từ 01/7/2025

  • Sơ đồ thẩm quyền Tòa án nhân dân các cấp kể từ ngày 01/7/2025

  • Thủ tục xóa án tích mới nhất theo quy định pháp luật năm 2025

  • Xâm phạm chỗ ở của công dân bị xử lý như thế nào?

  • Thế nào là phòng vệ chính đáng?

  • XÚC PHẠM DANH DỰ NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC

  • ĐÁNH BẠC ONLINE BỊ XỬ PHẠT NHƯ THẾ NÀO?

  • Người có hành vi làm nhục người khác thì sẽ bị xử lý thế nào theo Bộ luật Hình sự?

  • MỨC PHẠT ĐỐI VỚI HÀNH VI TÀNG TRỮ CHẤT MA TÚY

  • Các hành vi buôn bán người qua biên giới xử lý thế nào?

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH DŨNG

Hợp tác thành công

icon

Địa Chỉ :
16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội

Hotline : 0936 018 199

Fax :

Mail :
minhdunglawfirm@gmail.com

Facebook
  • Home
  • Về chúng tôi
  • Dịch vụ
  • Tin tức

Copyright © 2018 - All rights reserved

Mời bạn nhập thông tin. Chúng tôi sẽ gọi lại tư vấn

CHAT VỚI CHÚNG TÔI