ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH DŨNG

16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội - Hotline: 0936 018 199 - Email: minhdunglawfirm@gmail.com

  • Trang chủ
  • BỘ MÁY CÔNG TY
  • VBPL
    • Luật
    • Nghị định
    • Nghị quyết
    • Thông tư
    • Quyết định
    • Văn bản khác
  • BÀI VIẾT MỚI
  • BIỂU MẪU
    • Biểu mẫu Luật Hình sự
    • Biểu mẫu Luật Hôn nhân và gia đình
    • Biểu mẫu Doanh nghiệp
  • ĐĂNG KÝ TƯ VẤN

Danh mục dịch vụ

  • Biểu Mẫu
  • Hỗ trợ doanh nghiệp
  • Tố tụng
  • Nhân sự
  • Tư vấn pháp luật
  • Hôn nhân
  • Hình sự
  • Dịch vụ pháp lý khác
Facebook

Hỗ trợ trực tuyến

Customer Support
Luật sư Hà 0936018199
  • Trang chủ
  • Tư vấn pháp luật trực tuyến

Không thẩm định đất thế chấp, hợp đồng thế chấp có vô hiệu không?

Thứ hai, Ngày 15/09/2025 10:55

Trên thực tiễn có nhiều trường hợp Ngân hàng không tiến hành thẩm định, xác minh tài sản thế chấp, dẫn đến không biết việc tài sản vẫn đang được quản lý, sử dụng bởi người chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mặc dù về mặt giấy tờ thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được đăng ký biến động, sang tên đầy đủ, đúng quy định. Trong trường hợp Tòa án xét thấy có căn cứ để hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì kéo theo đó Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có bị vô hiệu hay không?

Tại mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự, tố tụng hành chính có giải đáp:

1. Trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật. Vậy giao dịch thế chấp đó có bị vô hiệu không?

Tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự quy định:

“...2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. …”

Theo Bản thuyết minh Dự án Bộ luật Dân sự năm 2015 của Ban soạn thảo thì quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự là nhằm: “...Bảo đảm công bằng, hợp lý đối với người thiện chí, ngay tình và bảo đảm sự ổn định trong các quan hệ dân sự (các Bộ luật dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự)...”. Cho nên, cụm từ “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự phải được áp dụng theo nghĩa rộng. Có nghĩa là: Không chỉ có những giao dịch nhằm chuyển giao quyền sở hữu như: Hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn nhà ở; chuyển nhượng, chuyển đổi, góp vốn bằng quyền sử dụng đất... mà cả những giao dịch nhằm chuyển giao những quyền về sở hữu đối với tài sản hoặc quyền về sử dụng đối với thửa đất.

Đồng thời, thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm, theo quy định tại Điều 317 của Bộ luật Dân sự thì nội hàm của thế chấp tài sản là việc người thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp mà không giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 320 của Bộ luật Dân sự quy định nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản là: “Giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299 của Bộ luật này...”; khoản 7 Điều 323 của Bộ luật Dân sự quy định quyền của bên nhận thế chấp: “Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này”. Như vậy, mục đích của thế chấp là người có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp, trong trường hợp nghĩa vụ đó không được bên thế chấp thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải giao tài sản đã thế chấp cho bên nhận thế chấp xử lý nhằm bảo đảm quyền lợi của bên nhận thế chấp. Vì vậy, phải xem thế chấp tài sản là một giao dịch chuyển giao tài sản có điều kiện; để bảo đảm quyền lợi cho bên nhận thế chấp ngay tình thì phải hiểu quy định “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự được áp dụng cả trong trường hợp giao dịch về thế chấp tài sản.

Cho nên, trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu.

 

Tuy nhiên tại Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 03/4/2019, Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra đáp án khác đối với trường hợp Ngân hàng nhận thế chấp mà không tiến hành thẩm định tài sản thế chấp, dẫn đến không phát hiện ra tài sản đang được chiếm hữu, sử dụng bởi người khác, có thể không biết về việc thế chấp:

1. Nhà đất thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông A, bà B. Ông A làm giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C (việc giả chữ ký đã được chứng minh thông qua việc giám định). Sau khi chuyển nhượng, ông A, bà B vẫn chiếm hữu, sử dụng nhà đất. Sau đó, C dùng tài sản này để thế chấp khoản vay tại Ngân hàng. Vậy, giao dịch thế chấp tại Ngân hàng có bị vô hiệu không? Nếu vô hiệu thì có trái với mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự, tố tụng hành chính (sau đây gọi tắt là Công văn số 64/TANDTC-PC) không?

Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”.

Khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.

Trường hợp này, việc ông A giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C mà không được bà B đồng ý, nên căn cứ Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng nhà đất trên là vô hiệu.

Sau khi nhận chuyển nhượng, C dùng tài sản này thế chấp khoản vay tại Ngân hàng nhưng khi ký hợp đồng thế chấp tài sản, Ngân hàng không thẩm định, xác minh nên không biết ông A, bà B vẫn quản lý, sử dụng nhà đất hoặc đã thẩm định nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ông A, bà B biết việc thế chấp tài sản này. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (Ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC, do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản cũng vô hiệu.

 

Như vậy, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định Ngân hàng có nghĩa vụ thẩm định, xác minh tài sản thế chấp là nhà đất và đã không thực hiện, do vậy không phải người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, dẫn tới việc Hợp đồng thế chấp sẽ bị vô hiệu khi xử lý hậu quả của giao dịch vô hiệu là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

 

Liên quan tới hướng dẫn này, bạn đọc có thể tham khảo Bản án số 43/2020/DS-PT ngày 09/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, trong đó Hội đồng xét xử đã nhận định: “Thực tế việc nhượng chuyển nhượng nhà đất giữa ông H và chị T1 chỉ được thực hiện trên giấy tờ, ông H không bàn giao nhà đất cho chị T1 mà vẫn do bà T và bà L quản lý, sử dụng từ năm 1996 đến nay. Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng giữa ông H và chị T1 không phải là giao dịch dân sự ngay tình. Sau đó, chị T1 ký hợp đồng thế chấp nhà đất cho Ngân hàng A để bảo đảm khoản vay, Ngân hàng A QN cũng không thực hiện thẩm định tài sản thế chấp theo quy định nên không phát hiện nhà đất tại thời điểm thế chấp đang do người khác quản lý, sử dụng là vi phạm Điều 94 Luật Tổ chức tín dụng.”

----------------------------------------

⚖ Công ty Luật TNHH Minh Dũng ⚖

Địa chỉ: 16TM1-5 Khu đô thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Định Công, thành phố Hà Nội.

Số điện thoại: 0936.018.199 (LS. ThS. Lê Duy Hà)

Website: https://luatminhdung.com

Email: minhdunglawfirm@gmail.com

Bài viết liên quan

  • Khi nào sử dụng nhà thầu phụ trở thành chuyển nhượng thầu?

  • Bản sao y công chứng có giá trị trong bao lâu?

  • Thắt chặt dòng tiền trong giao dịch nhà ở hình thành trong tương lai

  • Những trường hợp xây nhà không cần giấy phép xây dựng

  • Hợp đồng đã thực hiện 95% vẫn vô hiệu

  • Không cấp sổ đỏ cho hộ gia đình từ ngày 01/8/2025

  • Luật sư có được hứa thưởng? – Quyết định giám đốc thẩm số 271/2024/DS-GĐT – Quyết định giám đốc thẩm số 271/2024/DS-GĐT

  • Quyền lợi của người lao động khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật?

  • Người có hành vi làm nhục người khác thì sẽ bị xử lý thế nào theo Bộ luật Hình sự?

  • LỪA ĐẢO TRỰC TUYẾN VÀ CÁCH THỨC ĐỀ PHÒNG

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH DŨNG

Hợp tác thành công

icon

Địa Chỉ :
16TM1-15 Khu Đô Thị The Manor Central Park, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội

Hotline : 0936 018 199

Fax :

Mail :
minhdunglawfirm@gmail.com

Facebook
  • Home
  • Về chúng tôi
  • Dịch vụ
  • Tin tức

Copyright © 2018 - All rights reserved

Mời bạn nhập thông tin. Chúng tôi sẽ gọi lại tư vấn

CHAT VỚI CHÚNG TÔI